20.5.13

Bản dịch tiếng Việt và Tiếng Tây Ban Nha các trích đoạn trong một số tác phẩm của Haruki Murakami (P.1)

TÂM SỰ NGƯỜI TẬP DỊCH

Nếu công việc dịch thuật bị chi phối bởi áp lực về thời gian và lợi nhuận thì tôi không tin một cuốn sách được xuất bản còn có thể giữ lại được “linh hồn” của văn bản gốc và sẽ không bị đào thải theo thời gian. Nhưng khi đó, khi một tác phẩm dịch ra đời trong  sự vội vàng và cẩu thả, thì  đa phần độc giả chính là những người chịu thiệt thòi đầu tiên. Người ta không thể không lấy làm khó chịu khi cầm trên tay một tác phẩm dịch mới vừa xuất bản chưa lâu đã trở thành tâm điểm của những tranh cãi từ nhiều phía trong khi dịch giả, người nhận trách nhiệm đối với bản dịch của mình, lại lớn tiếng bảo vệ quan điểm (đôi khi là sai) của họ đến mức cực đoan.

Để chuyển ngữ một tác phẩm văn học theo tôi là cả một quá trình hết sức gian nan và đầy thử thách. Người đảm nhận công việc này đòi hỏi phải am tường không những cả hai ngôn ngữ (và thậm chí nhiều hơn), mà còn phải có vốn hiểu biết rộng về nền văn hóa, lịch sử cũng như ở họ phải có một cái nhìn bao quát đối với các yếu tố khác xung quanh tác phẩm. Một tác phẩm dịch được độc giả đón nhận như thế nào chính là thể hiện mức độ cẩn thận và kỹ lưỡng của người dịch đối với tác phẩm đó.

Đừng hy vọng tạo ra một dị bản tuyệt vời hơn tác phẩm gốc bằng việc dịch một cuốn sách từ một ngôn ngữ nào đó sang tiếng Việt, nhưng xin đừng quá hời hợt với công việc mình đang làm bởi lẽ dịch thuật là một nghề đáng trân trọng và hết sức thú vị.

Sau đây là những đoạn trích dẫn tôi rất  thích từ một số tác phẩm của Haruki Murakami đã được dịch ra tiếng Việt Nam và tiếng Tây Ban Nha. Công việc tổng hợp này không mang bản chất của một bài viết khoa học mà chỉ  đơn thuần là việc giới thiệu các đoạn trích dẫn bằng cả hai thứ tiếng. Song, thao tác tổng hợp này còn khập khiễng bởi lẽ rất có thể các bản dịch không đều được dịch từ cùng một bản tiếng Nhật hoặc cùng một bản tiếng Anh. Chính vì thế, có những trích đoạn khi đối chiếu bằng cách dò từng câu sẽ cho thấy có sự không tương đồng về kết cấu. Tuy nhiên, đây có thể là một tài liệu tham khảo khá tốt với những người quan tâm đến nghề biên/phiên dịch ngôn ngữ Tây Ban Nha.

Nguyễn Hoàng Thanh
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG TÂY BAN NHA CỦA CÁC TRÍCH ĐOẠN TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM CỦA NHÀ VĂN HARUKI MURAKAMI

1) NGƯỜI TÌNH SPUTNIK/SPUTNIK, MI AMOR


Bìa sách Người tình Sputnik (NXB Hội Nhà Văn) và Sputnik, mi amor (NXB Tusquets)


a.
"A los veintidós años, en primavera, Sumire se enamoró por primera vez. Fue un amor violento como un tornado que barre en línea recta una vasta llanura. Un amor que lo derribó todo a su paso, que lo succionó todo hacia el cielo en su torbellino, que lo descuartizó todo en un arranque de locura, que lo machacó todo por completo. Y, sin que su furia amainara un ápice, barrió el océano, arrasó sin misericordia las ruinas de Angkor Vat, calcinó con su fuego las selvas de la India repletas de manadas de desafortunados tigres y, convertido en tempestad de arena del desierto persa, sepultó alguna exótica ciudad amurallada. Fue un amor glorioso, monumental. La persona de quien Sumire se enamoró era diecisiete años mayor que ella, estaba casada. Y debo añadir que era una mujer. Aquí empezó todo y aquí acabó (casi) todo."
-----
"Mùa xuân năm hai mươi hai tuổi, Sumire yêu lần đầu tiên trong đời. Một tình yêu mãnh liệt, một cơn lốc xoáy thực sự quét qua các bình nguyên - san phẳng tất cả những gì nó gặp trên đường, tung mọi thứ lên trời, xé chúng ra từng mảnh, nghiền nát thành từng miếng. Cơn lốc không hề giảm cường độ khi băng qua đại dương, biến Ăngko Vat thành đống hoang tàn, thiêu cháy rừng già Ấn Độ với hổ báo và muôn loài, rồi biến thành cơn bão cát sa mạc vùng vịnh Ba Tư, chôn vùi cả một thành phố pháo đài kỳ lạ dưới biển cát. Tóm lại, đó là một tình yêu thực sự vĩ đại. Người Sumire đem lòng si mê hóa ra lớn hơn cô mười bảy tuổi. Đã có gia đình. Và, tôi phải nói thêm, là phụ nữ. Đây là nơi tất cả bắt đầu, và là nơi tất cả kết thúc. Gần như tất cả."

b.
"Sin embargo, cada vez que debo hablar de mí mismo me siento, en cierto modo, confuso. Me veo atrapado por la clásica paradoja que conlleva la proposición: “¿Quién soy?”. Si se tratara de una simple cantidad de información, no habría nadie en este mundo que pudiera aportar más datos que yo. No obstante, al hablar sobre mí, ese yo de quien estoy hablando queda automáticamente limitado, condicionado y empobrecido en manos de otro que soy yo mismo en tanto que narrador -víctima de mi sistema de valores, de mi sensibilidad, de mi capacidad de observación y de otros muchos condicionamientos reales-. En consecuencia, ¿hasta qué punto se ajusta a la verdad el “yo” que retrato? Es algo que me inquieta terriblemente. Es más, me ha preocupado siempre.

Sin embargo, la mayoría de las personas de este mundo no parece sentir ese temor, esa incertidumbre. En cuanto tienen oportunidad hablan de sí mismos con una sinceridad pasmosa. Suelen decir frases del tipo: “Yo parezco tonto de tan franco y sincero que soy”, o “Soy muy sensible y me manejo muy mal en este mundo”, o “Yo le leo el pensamiento a la gente”. Pero he visto innumerables veces cómo personas “sensibles” herían sin mas los sentimientos ajenos. He visto a personas “francas y sinceras” esgrimir sin darse cuenta las excusas que más le convenían. He visto cómo personas que “le leían el pensamiento a la gente” eran engañadas por los halagos más burdos.Todo ello me lleva a pensar: “¿Qué sabemos, en realidad, de nosotros mismos?”."
-----
"Tôi thấy thật khó nói về chính mình. Tôi luôn vấp phải câu hỏi ngược đời muôn thưở tôi là ai? Chắc chắn không ai biết về mọi chuyện của tôi rõ như tôi. Nhưng đôi khi tôi nói về mình thì tất cả những yếu tố khác - các giá trị, các tiêu chuẩn, các giới hạn của chính tôi trong vai trò người quan sát - đã khiến tôi, người kể chuyện, phải chọn lọc và lựa ra những chi tiết về tôi, người được kể. Tôi luôn bị xáo trộn bởi ý nghĩ mình sẽ không vẽ được bức tranh thật khách quan về mình.
Những việc kiểu này dường như không phải mối bận tâm đối với đa số mọi người. Hễ có dịp là họ lại thẳng thắn đến ngạc nhiên khi tự nói về mình. "Tôi trung thực, cởi mở đến kỳ lạ," họ sẽ nói vậy, hoặc "Tôi là người dễ tự ái và không thuộc mẫu người dễ dàng hòa hợp với mọi người," hoặc "Tôi rất giỏi cảm nhận cảm xúc thực sự của người khác." Nhưng tôi chưa lần nào gặp được người nói rằng họ dễ dàng bị tổn thương hay làm tổn thương người khác mà chẳng có cơn cớ rõ ràng gì. Những người tự cho là trung thực và cởi mở, không hề nhận thức được mình đang làm gì, vô tình viện một cái cớ tự tạo nào đó để đạt được điều mình muốn. Còn những người "giỏi cảm nhận cảm xúc thực sự của người khác" thì bị lừa phỉnh bởi những lời tang bốc rõ rành rành. Thế cũng đủ để tôi đặt ra câu hỏi: thực ra chúng ta biết rõ mình như thế nào?"

c.
"Sueño. A veces pienso que es la única acción correcta que puedo hacer. Soñar, vivir en el mundo de los sueños… (…) Pero no dura mucho. La vigila siempre acaba apoderándose de mi."
-----
“Tôi mơ. Đôi khi tôi nghĩ đó là điều đúng duy nhất cần làm. Mơ tức là sống trong thế giới của những giấc mơ, Sumire đã nói vậy. Nhưng việc đó không kéo dài được lâu. Sự tỉnh táo luôn luôn đến đưa tôi về.”

d.
"Ya ves, continuamos viviendo, cada uno a su manera, incluso ahora”, pensé. Por profunda y fatal que sea la pérdida, por importante que sea lo que nos han arrancado de las manos, aunque nos hayan convertido en alguien completamente distinto y sólo conservemos, de lo que antes éramos, una fina capa de piel, a pesar de todo, podemos continuar viviendo, así, en silencio. Podemos alargar la mano e ir tirando del hilo de los días que nos han destinado, ir dejándolos luego atrás. En forma de trabajo rutinario, el trabajo de todos los días…, haciendo, según cómo, una buena actuación."
-----
"Vậy đó chính là cách sống của chúng ta. Bất kể sự mất mát tàn khốc và sâu sắc đến thế nào, bất kể những thứ bị cướp khỏi chúng ta – những thứ bị giật khỏi tay chúng ta – quan trọng đến thế nào, ngay cả khi chúng ta đã hoàn toàn thay đổi tới mức chỉ còn là một lớp da của chính mình trước đây, chúng ta vẫn tiếp tục sống cuộc sống của mình theo cách này, trong im lặng. Chúng ta kéo lại gần hết mức khoảng thời gian được dành cho chúng ta, rồi rời xa nó khi nó lùi lại phía sau. Cứ lặp đi lặp lại hàng ngày tới mức điêu luyện cái động tác liên tục đó. Để lại đằng sau một cảm giác trống rỗng vô biên."

e.
“Desde la adolescencia me he habituado a trazar una frontera invisible entre mí mismo y los demás. Empecé a tomar una distancia perpetua ante el otro, fuera quien fuese, y a mantenerla mientras estudiaba su actitud. Aprendí a no creerme todo lo que la gente dice. Mis únicas pasiones sin reservas han sido los libros y la música. Y, tal vez como lógica consecuencia de todo ello, me fui convirtiendo en una persona solitaria.”
-----
Kết quả của tất cả chuyện này là ngay khi còn trẻ tôi đã vạch ra một ranh giới vô hình giữa tôi và người khác. Dù tôi giao du với ai cũng vậy. Tôi luôn giữ khoảng cách, thận trọng theo dõi thái độ người khác để họ không tiến gần hơn được chút nào. Tôi không dễ tin những gì người khác nói. Đam mê duy nhất của tôi là sách và âm nhạc. Như bạn có thể đoán được, tôi sống một cách đơn độc.

f.
“Y entonces lo comprendí. Habíamos sido unas magníficas compañeras de viaje, pero, en definitiva, no éramos más que dos solitarios pedazos de metal trazando su propia órbita cada uno. Desde lejos parecían bellos como estrellas fugaces. En realidad, sólo éramos prisioneros sin destino encerrados cada uno en su propia cápsula. Cuando las órbitas de los dos satélites se cruzaban casualmente, nos encontrábamos. Quizá simpatizábamos. Pero sólo duraba un instante. Momentos después volvíamos a estar inmersos en la soledad más absoluta. Y algún día arderíamos y quedaríamos reducidas a nada”.
-----
Và khi ấy tôi hiểu ra, hiểu rằng chúng tôi là những người bạn đồng hành tuyệt vời, nhưng rốt cuộc chỉ là hai khối kim loại đơn độc bay theo quỹ đạo riêng của mình. Trông xa chúng như những ngôi sao băng đẹp đẽ, nhưng thực tế chúng chẳng là gì ngoài những nhà tù, nơi mỗi người chúng tôi bị nhốt đơn độc, đi đến nơi vô định. Khi quỹ đạo hai vệ tinh của chúng tôi ngẫy nhiên ngang qua nhau thì chúng tôi có thể ở cùng nhau. Nhưng chỉ trong một khoảnh khắc hết sức ngắn ngủi mà thôi. Sang khoảnh khắc sau chúng tôi lại rơi vào sự đơn độc tuyệt đối. Cho đến khi chúng tôi cháy bùng lên và trở thành hư vô”.

g.
"Sin decir palabra, Sumire me tomó la mano y me la apretó suavemente. Su mano era pequeña, suave, estaba cubierta por una fina pátina de sudor. Imagine aquella mano sobre mi pene erecto, acariciándolo. Me dije que no debía pensar en ello. Pero fue inútil. No podía apartar aquella imagen de mi mente. Tal como había dicho Sumire, no había alternativa. Imagine como mis manos le quitaban la camiseta, los pantalones cortos, las bragas. Imagine el tacto de sus pezones duros y prietos en la punta de mi lengua. Como luego le separaba las piernas y penetraba su interior húmedo. Despacio, hasta lo mas hondo de la negrura. Ella me invitaba, me engullía, me expulsaba... No pude frenar aquella obsesión."
-----
Không nói một lời, Sumire cầm tay tôi siết nhẹ. Bàn tay nhỏ nhắn mềm mại của cô hơi lấp loáng mồ hôi. Tôi hình dung tay cô đang vuốt ve dương vật cứng như đã của mình. Tôi cố dập tắt ý nghĩ đó nhưng không thể. Như Sumire đã nói, không có lựa chọn nào khác. Tôi hình dung mình đang cởi chiếc áo phông, quần soóc rồi quần lót của cô. Cảm thấy núm vú căng cứng của cô dưới lưỡi mình. Đang giang rộng chân cô ra, đi vào chốn ẩm ướt ấy. Chậm rãi, đi vào bóng tối sâu kín bên trong. Nó dụ dỗ tôi vào trong, bao bọc tôi, rồi đẩy tôi ra...Ảo ảnh này túm lấy tôi, không buông tha. Tôi lại nhắm nghiền mắt, để mặc khối thời gian đông đặc cuốn tôi đi. Mặt cúi xuống, tôi kiên nhẫn chờ cho làn khí nóng thôi trên đầu tôi và biến mất.

h.
“¿Por qué tenemos que quedarnos todos tan solos? Pensé. ¿Qué necesidad hay? Hay tantísimas personas en este mundo que esperan, todas y cada una de ellas, algo de los demás, y que, no obstante, se aíslan tanto las unas de las  otras. ¿Para qué? ¿Se nutre acaso el Planeta de la soledad de los seres humanos para seguir rotando?

Me tumbé de espaldas sobre una piedra plana, alcé la vista hacia el cielo y pensé en la multitud de satélites artificiales que debían de estar girando alrededor de la tierra. El horizonte aún estaba ribeteado de una pálida luz, pero en aquel cielo teñido de un profundo color vino empezaban a brillar ya las estrellas. Busqué en él la luz de los satélites. Pero aún había demasiada claridad para que pudieran apreciarse a simple vista. Las estrellas visibles permanecían inmóviles, cada una en su lugar, como clavadas en el cielo. Cerré los ojos, agucé el oído y pensé en los descendientes del Sputnik que cruzaban el firmamento teniendo como único vínculo la gravedad de la tierra. Unos solitarios pedazos de metal en la negrura del espacio infinito que de repente se encontraban, se cruzaban y se separaban para siempre. Sin una palabra, sin una promesa.”
-----
Vì sao mọi người cứ phải cô đơn như thế này? Mục đích của nó là gì? Hàng triệu con người trên thế giới này, tất cả đều đang mong mỏi khát khao, đang tìm kiếm những người khác để thỏa mãn mình nhưng lại tự họ cô lập họ. Vì sao? Có phải Trái đất sinh ra chỉ để nuôi dưỡng sự cô đơn của con người?

Tôi nằm ngửa trên phiến đá, chăm chú nhìn trời và nghĩ về tất cả vệ tinh nhân tạo đang bay quanh Trái đất. Chân trời vẫn còn mờ sáng, những vì sao đã bắt đầu nhấp nháy trên bầu trời sâu thẳm nhuộm màu rượu vang. Tôi chăm chú quan sát tìm kiếm ánh sáng vệ tinh giữa các vì sao đó, nhưng trời vẫn còn quá sáng để có thể xác định được nó bằng mắt thường. Những ngôi sao thưa thớt dường như được ghim chặt vào vị trí, bất động. Tôi nhắm mắt, lắng nghe các thế hệ Sputnik đời sau cho đến tận bây giờ vẫn đang bay quanh Trái đất và chỉ có trọng lực là mối liên hệ duy nhất với hành tinh này. Những linh hồn đơn độc bằng kim loại bay trong bóng tối vũ trụ không có gì ngăn trở, chúng gặp nhau, lướt qua nhau và rẽ theo các hướng khác nhau, không bao giờ gặp lại. Không một lời trao đổi. Không một lời hứa hẹn.

i.
“En la vida de las personas hay una cosa especial que sólo puede tenerse en una época especial. Es como una pequeña llama. Las personas precavidas y con suerte la preservan con todo cuidado, la hacen crecer, la llevan como una antorcha que ilumine sus vidas. Pero, una vez se pierde, esa llama no puede volver a recuperarse jamás.”
-----
Mỗi người chúng ta được số phận ban cho một điều đặc biệt trong đời. Giống như một ngọn lửa nhỏ. Những người may mắn, thận trọng thì biết cách giữ gìn nó, khơi nó thành đống lửa to và lấy nó làm bó đuốc soi đường cho mình. Nhưng một khi để ngọn lửa tắt thì sẽ không bao giờ có lại được nữa.


2) RỪNG NA – UY / TOKIO BLUES

Bìa sách Tokio Blues (NXB Tusquests) và Rừng Na Uy (NXB Hội Nhà Văn)


a.
“-Watanabe ¿me quieres?
-Claro. - respondí
-¿Puedo pedirte dos favores?
-Incluso tres.
Naoko sacudió la cabeza sonriendo
-Con dos es suficiente. El primero es que te agradezco que vengas a verme. Estoy muy contenta y me…Me ayuda mucho. Quizá no lo parezca, pero es así.
-Volveré a venir -dije- ¿Y el otro?
-Que te acuerdes de mi. ¿Te acordarás siempre de que existo y de que he estado a tu lado?
-Me acordaré siempre.”
-----
"Hãy nói xem, Toru", nàng lên tiếng. "Cậu có yêu mình không?"
"Cậu biết là mình yêu cậu mà."
"Vậy cậu có thể giúp mình hai việc không?"
"Xin thưa, quí cô có thể có những ba điều ước kia!"
Naoko mỉm cười và lắc đầu. "Không, hai là đủ rồi. Một là cậu hãy biết rằng mình rất biết ơn cậu đã đến tận đây thăm mình. Mình hy vọng cậu sẽ hiểu là cậu đã làm cho mình hạnh phúc biết bao nhiêu. Mình biết rằng nếu có cái gì có thể cứu được mình, thì chính là niềm hạnh phúc này đây. Có thể mình không biểu lộ được điều đó, nhưng thật là như vậy đấy."
"Mình sẽ đến thăm cậu nữa mà," tôi nói. "Thế còn điều ước thứ hai?"
"Mình muốn cậu luôn luôn nhớ đến mình. Cậu sẽ nhớ rằng mình đã tồn tại, rằng mình đã đứng cạnh cậu ở đây như thế này chứ?"
"Lúc nào cũng vậy," tôi nói. "Mình sẽ luôn luôn nhớ."

b.
Te estoy escrbiendo esta carta aprovechando que has ido a comprar unas Coca-Colas. Es la primera vez en mi vida que le escribo una carta a alguien que ésta sentado en un banco a mi lado. Pero es la única manera que he encontrado para comunicarme contigo. Porque apenas escuchas lo que digo, ¿no es cierto?
Hoy me has hecho algo terrible. No te has dado cuenta siquiera de que me he cambiado el peinado, ¿verdad? Después del tiempo que he tardado en dejarme crecer el pelo, a finales de la semana pasada por fin logré hacerme un peinado más o menos femenino. Pero tú no te has dado cuenta. Y yo que pensaba que estaba bastante mona y que, después de estar tanto tiempo sin vernos, te sorprenderías…,pero no te has fijado. Esto es el colmo ¿no crees? Quizá no recuerdes qué ropa llevaba puesta. Yo soy una chica. Por más cosas que tengas en la cabeza, ¡podrías prestarme un poco más de atención! Hubiera bastado con una frase del estilo: “Te sienta bien este peinado”. Te hubiera perdonado que fueras a la tuya, que pensaras en qué sé yo.
Por eso, te he dicho una mentira. No es cierto que haya quedado con mi hermana en Ginza. Hoy pensaba pasar la noche en tu casa. Dentro del bolso llevo el pijama y el cepillo de dientes. ¡Ja,ja,ja! Parezco idiota. Si no me has invitado…En fin, te importo un rábano y, por lo visto, quiere estar solo, así que te dejaré en paz. Quémate las cejas pensando en lo que te dé la gana.
No creas que estoy enfadada contigo. Sólo estoy triste. Porque tú has sido muy amable conmigo y, a cambio, no he sabido ayudarte. Tú siempre estas encerrado en tu propio mundo y, cuando llamo a la puerta , “toc, toc”, te limitas a levantar la cabeza antes de volver a encerrarte.
Ahora te acercas con las Coca-Colas. Parece que tengas la cabeza en las nubes. He deseado que tropezaras, pero no te has caído. Ahora acabas de sentarte a mi lado. Te estás bebiendo la Coca-Cola a sorbos. Deseaba que al volver hubieras caído en la cuenta y al fin me dijeras: “!Anda, pero si te has cambiado de peinado!”. Pero no ha habido suerte. Si te hubieras fijado, hubiera roto esta carta y hubiera dicho: “Vámonos a tu casa. Te haré una buena cena. Y luego nos iremos a la cama los dos muy juntitos”. Pero eres tan insensible como una plancha de hierro.
Adiós.
P.D. A partir de ahora, aunque me veas en la clase, haz el favor de no dirigirme la palabra.
-----
"Tớ viết thư này trong lúc cậu đi mua nước uống. Đây là lần đầu tiên trong đời tớ viết thư cho một người ngồi ngay cạnh mình trên ghế công viên, nhưng có lẽ đó là cách duy nhất tớ có thể đến được với cậu. Tớ muốn nói là cậu đang chẳng để ý gì đến những những lời tớ nói, đúng không nào?
Cậu có biết hôm nay cậu đã làm điều gì khủng khiếp lắm với tớ không? Cậu không hề thấy tớ đã đổi kiểu tóc khác, đúng không? Tớ đã loay hoay với nó mãi rồi, cố để cho nó dài ra, và cuối cùng thì cuối tuần trước tớ đã làm được một kiểu mà cậu có thể gọi là tóc con gái, nhưng thậm chí cậu cũng chẳng để ý nữa. Trông nó cũng hay, nên tớ đã tưởng sẽ làm cho cậu choáng một tí sau khi bao nhiêu lâu cậu mới gặp lại tớ, nhưng cậu nào có thấy gì. Cậu bảo thế có chán không? Tớ cuộc là cậu còn chẳng biết tớ mặc gì hôm nay nữa kia. Ê, tớ vẫn là con gái mà! Ừ thì cậu đang bận chuyện gì đó trong đầu! Nhưng cứ nhìn người ta một cái tử tế thì đã làm sao! Cậu chỉ cần bảo "Tóc xinh đấy", thế là tớ sẽ có thể tha thứ cho cậu vì đã mải chìm đắm trong một triệu thứ ý nghĩ kia, nhưng mà không!
Chính thế mà tớ sắp tặng cậu một lời nói dối đây. Không phải tớ đi gặp chị tớ ở Ginza đâu. Tớ đã định đến ngủ lại ở chỗ cậu. Thậm chí đã mang cả quần áo ngủ đi theo. Thật thế. Tớ đã có áo ngủ và bàn chải đánh răng ở trong túi rồi. Thế có ngủ không! Đấy, cậu có hề mở mồm mời tớ đến thăm nhà mới của cậu đâu. Nhưng thôi, cần quái gì, rõ ràng là cậu muốn được một mình, nên tớ sẽ để cho cậu được một mình. Cứ việc nghĩ ngợi cho thoả đi!
Nhưng đừng có hiểu sai tớ. Tớ không hoàn toàn phát điên vì cậu đâu. Tớ chỉ buồn thôi. Cậu đã tốt như thế với tớ khi tớ gặp rắc rối, còn bây giờ thì cậu đang gặp rắc rối và có vẻ là tớ chẳng làm được gì cho cậu cả. Cậu đang bị nhốt chặt trong cái thế giới nhỏ bé ấy của cậu, và khi tớ gõ cửa thì cậu chỉ ngẩng lên độ một giây rồi lại bổ vào trong đó ngay.
Bây giờ thì tớ thấy cậu đang mang đồ uống về kia kìa - vừa đi vừa nghĩ. Tớ đang mong cậu vấp ngã đây, nhưng cậu không vấp. Bây giờ thì cậu ngồi ngay cạnh và đang uống lon Coke của cậu. Tớ đang bám lấy tia hy vọng cuối cùng là cậu sẽ nhận thấy và nói "Ê, cậu đổi kiểu tóc rồi à!" nhưng mà không. Nếu cậu nói thế thì tớ đã xé bức thư này đi và bảo "Về nhà cậu chơi đi. Tớ sẽ nấu một bữa tối ngon lành. Và sau đó bọn mình có thể lên giường ôm ấp nhau." Nhưng cậu vẫn nhạy cảm như gỗ đá vậy.
Tạm biệt.
Tái bút: Lần sau gặp thì đừng có nói gì với tớ đấy.”

c.
“Pienso en ti más que nunca. Hoy está lloviendo. Los domingos de lluvia me siento confuso. Si llueve no puedo lavar la ropa, y en consecuencia, no puedo planchar. Tampoco puedo pasear, ni tumbarme en la terraza. Lo único que puedo hacer es sentarme a la mesa y escuchar una vez tras otra el “Kind of Blue” mientras miro distraídamente el patio bajo la lluvia. Tal como te escribí hace unos días, los domingos no me doy cuerda.”
-----
“Mình đang nghĩ đến cậu nhiều hơn bao giờ hết. Hôm nay mưa. Chủ nhật mưa là rất khổ cho mình. Khi trời mưa, mình không thể giặt giũ, tức là cũng không thể là quần là áo được. Mình không thể di dạo, mà cũng chẳng lên nằm trên mái nhà được. Mình chỉ có thể để máy quay đã ở chế độ tự động và nghe đi nghe lại chương trình Kind of Blue trong khi nhìn mưa rơi dưới sân ngoài kia. Như mình đã viết cho cậu trước đây, mình không lên dây cót cho bản thân vào Chủ nhật.”

d.
“Es una realidad. Mientras vivimos, vamos criando la muerte al mismo tiempo. Pero ésta es sólo una parte de la verdad que debemos conocer. La muerte de Naoko me lo enseñó. Me dije: “El conocimiento de la verdad no alivia la tristeza que sentimos al perder a un ser querido. Ni la verdad, ni la sinceridad, ni la fuerza, ni el cariño son capaces de curar esta tristeza. Lo único que puede hacerse es atravesar este dolor esperando aprender algo de él, aunque todo lo que uno haya aprendido no le sirva para nada la próxima vez que la tristeza lo visite de improviso”
-----
“Bằng cách sống cuộc đời của mình, chúng ta đang nuôi dưỡng sự chết. Hiển nhiên như vậy, nhưng đó lại là một chân lí duy nhất mà chúng ta phải học mới biết được. Còn cái mà tôi học được từ cái chết của Naoko lại là thế này: không có chân lí nào có thể làm dịu được nỗi đau buồn khi chúng ta mất một người yêu dấu. Không một chân lí nào, một tấm lòng trung thực nào, một sức mạnh nào, một tấm lòng từ ái nào, có thể làm dịu được nỗi đau buồn ấy. Chúng ta chỉ có thể chịu đựng nỗi đau ấy cho đến tận cùng và cố học được một điều gì đó, nhưng bài học ấy cũng lại chẳng có ích gì nữa khi chúng ta phải đối mặt với một nỗi đau buồn mới sẽ ập đến không biết lúc nào.”

e.
“—Dime más cosas bonitas.
—Me gustas, Midori.
—¿Cuánto?
—Me gustas como un oso en primavera.
—¿«Un oso en primavera»? —Midori volvió a levantar la cabeza—. ¿Qué es esto? ¡«Un oso en primavera»!
—Imagina que paseas sola por un prado y se te acerca un osito con la piel aterciopelada y unos ojazos. De pronto el osito te dice: «¡Buenos días, señorita! ¿Quiere usted rodar conmigo?». Entonces tú y el osito os pasáis el día entero rodando abrazados por una ladera sembrada de tréboles. Es bonito, ¿no?
—Muy bonito.
—Pues a mí me gustas tanto como eso.”
-----
"Nói cái gì hay hơn nữa đi."
"Tớ thực sự thích cậu, Midori à. Thích lắm."
"Lắm là bao nhiêu"
"Là như một chú gấu mùa xuân," tôi nói.
"Một chú gấu mùa xuân ư?" Midori lại ngẩng lên.
"Thế nghĩa là sao? Một chú gấu mùa xuân."
"Cậu đang bước đi trên một cánh đồng, chỉ có một mình, vào một ngày xuân, và chú gấu con bé nhỏ đáng yêu ấy với bộ lông mượt như nhung và cặp mắt nhỏ sáng ngời chạy tới đi cùng với cậu. Và nó nói "Xin chào tiểu thư. Có muốn lộn nhào với tôi không?" Thế là cậu với chú gấu chơi với nhau cả ngày hôm đó, quấn quít trong tay nhau, lăn mình xuống triền đồi phủ đầy hoa cỏ ở đó. Hay chưa nào?"
"Ờ. Thật là hay."
"Tớ thích cậu đến như vậy đấy."

f. (Đoạn đối thoại giữa Toru và Midori)
“– ¿Has leido El Capital de Karl Marx? – me preguntó Midori.
– Si. Como la mayoría de la gente.
– ¿Y lo has entendido?
– Algunos pasajes sí, pero otros no. Para poder leer El capital, antes es necesario haber adquirido un sistema de pensamiento. Pero, en general entiendo el marxismo bastante bien.
– ¿Crees que un estudiante de universidad de primero que no haya leído muchos libros de ese estilo puede entenderlo?
– Creo que no – dije
– Cuando ingresé en la universidad, entre en un club de música folk porque me apetecía cantar. Pero aquel sitio estaba lleno de impostores. Cuando me acuerdo de ellos, se me ponen los pelos de punta. Al entrar allí, lo primero que te hacían leer era “El capital”. «Para el próximo día, lee de tal a tal página». Según el discursito que nos soltaron, la música folk estaba íntimamente ligada a la sociedad y al movimiento radical. ¡Ya ves tu! En cuanto llegaba a casa, me esforzaba en leer a Marx. Pero no entendía nada. Aquello era peor que el modo condicional [del inglés]. Desistí a la tercera página. En la siguiente reunión dije que lo había leído pero que no había entendido nada. A partir de entonces me trataron de imbécil: que no tenía conciencia de los problemas, que me faltaba conciencia social… No bromeo. Y todo por decir que no entendía el texto. ¿No te parece alucinante?
– Si.
– Los “debates” también eran terribles. Todos utilizaban palabras complicadas y ponían cara de entenderlo todo. Como no me aclaraba, volví a preguntar: “¿qué es la explotación imperialista?¿Tiene relación con la Compañía de las Indias Orientales?”. O esto otro: ” ¡Abajo la comunidad industrial-académica! ¿significa que al salir de la universidad no puede uno encontrar trabajo en una empresa?”. Nadie supo explicármelo. Al contrario, se enfadaron ostensiblemente, ¿Puedes creerlo?
– Si.
– Me gritaban: “¿Cómo puede ser que no entiendas estas cosas?¿Qué tienes en la cabeza?. Y ése fue el fin. Quizás yo no soy muy inteligente. pertenezco al pueblo. Pero ¿No es el pueblo el que hace funcionar el mundo?¿Acaso no es el pueblo el explotado?¿Qué revolución es esa en que se alardea de palabras complicadas que el pueblo no entiende?¿ Qué clase de cambio social es ése? Yo también quiero mejorar el mundo. Pienso que, si alguien está explotado, esto tiene que terminar. Y de ahí vienen mis preguntas. ¿Tengo razón?
– Si, tienes razón.
– Entonces llegué a la conclusión de que todos aquellos tíos eran unos impostores. Que se sentían felices fanfarroneando con palabras complicadas, que sólo pretendían impresionar a las alumnas de primero y meterles mano bajo las faldas. Y que, al terminar cuarto, se cortarían el pelo, buscarían empleo en Mitsubishi, en Tokyo Bradcasting System, IBM , o en el banco Fuji, se casarían con unas bellezas que no hubieran leído a Marx en su vida y les pondrían nombres repelentes a sus hijos, de esos rebuscados. ¿”Abajo la comunidad industrial-académica”? Es para llorar de risa… No te imaginas a los nuevos. Pese a no entender nada, ponían cara de sabelotodo y se reían de mi. Incluso me soltaban: “Eres tonta. Aunque no entiendas nada, tu diles “Si, si, y tanto”, y ya está”. Hay una cosa que aun me molestó mas. ¿quieres que te la cuente?
– Si.
– Un día nos convocaron a una reunión política a medianoche, y a las chicas nos dijeron que lleváramos veinte onigri cada una. ¡No bromeo! ¿no te parece una discriminación sexual en toda regla? Pero, en fin, como siempre era el motivo de la discordia, decidí hacer los veinte onigri sin rechistar, Les metí uneboshi (ciruelas secas curtidas en sal) y los envolví en nori (algas). ¿Y sabes qué me dijeron? Que dentro de mis onigri sólo había uneboshi y no había nada más. Por lo visto, las otras chicas los habían rellenado con salmón, o huevas de bacalao y los habían acompañado de tortilla. Me puse tan furiosa que no me salían las palabras. ¿Aquellos tíos que se llenaban la boca hablando de la revolución protestaban por unos onigri que iban a comerse a medianoche?¿No era suficiente para ellos unos unigri con umeboshi dentro de y envueltos en nori? ¡Pensad en los niños de la India!
Me reí a mandíbula batiente. – ¿Y qué hiciste con el club de estudiantes?
– Dejé de ir en Junio. Ya estaba harta. No aguantaba más – explicó Midori -. La mayoría de los chicos en esta universidad son unos idiotas. Viven temblando de miedo de que los demás se den cuenta de que no saben algo. Todos leen los mismos libros, dicen las mismas cosas, todos se emocionan escuchando a John Coltrane y viendo películas de Pasolini.¿Es esto la revolución?
– Jamás he visto una, así que no puedo decírtelo.
– Si esto es revolución yo no la quiero para nada. Me fusilarían por no meter mas que umeboshi en los onigri. Y a ti te fusilarían por entender el modo condicional.
– Es posible- dije.
– Yo eso lo se muy bien. Porque soy del pueblo. Haya o no revolución, el pueblo seguirá sin contar para nada y tirando para delante, día a día. ¿Qué es la revolución? no es sólo cambiar el nombre del ayuntamiento. Pero aquellos personajes no tenían ni idea. Ellos fanfarroneaban diciendo tonterías. ¿Has visto alguna vez un inspector de hacienda?
– No – dije.
– Yo si. Muchas veces. Entran tan resueltos en las casas ajenas, dándose importancia: “¿Qué es este el libro de contabilidad? Veo que todo esta un poco manga por hombro. ¿De verdad cree que esto es un gasto? Enséñeme los recibos. ¡Los recibos!” Nosotros estábamos agazapados en un rincón de la tienda y, al llegar la hora de comer, hacíamos traer sushi. Mi padre jamás intentó estafar con los impuestos. Él es así, chapado a la antigua. No obstante, el inspector de hacienda iba protestando por todo. “Los ingresos son un poco bajos, ¿no le parece?” Los ingresos eran bajos porque ganábamos cuatro perras. Cuando nos decía eso nos sentíamos humillados. Me daban ganas de gritarle: “¡Vete a hacer eso a un sitio donde haya mas dinero!”. Watanabe, ¿crees que si triunfara la revolución cambiaría la actitud de los inspectores de hacienda?
– Lo dudo muchísimo
– Entonces yo no creo en la revolución. Yo sólo creo en el amor.”
-----
"Cậu đã bao giờ đọc Tư bản luận chưa?"
"Rồi. Không đọc hết đâu, tất nhiên, mà chỉ từng phần thôi, như hầu hết mọi người."
"Cậu có hiểu không?"
"Tớ cũng hiểu được chỗ này chỗ kia, nhưng không hết. Cũng phải có đầu óc thế nào đó mới đọc được một cuốn như Tư bản luận. Nhưng tớ nghĩ tớ cũng hiểu được cái tư tưởng chung của chủ nghĩa Mác.
"Theo cậu, một sinh viên năm thứ nhất vốn ít đọc sách thì có hiểu được Tư bản luận không nếu chỉ đọc nó mà không có ai hướng dẫn?"
"Có lẽ khó tớ có thể nói vậy."
"Cậu biết không, lúc mới vào đại học tớ tham gia một câu lạc bộ nhạc dân gian. Tớ chỉ muốn hát. Nhưng tụi thành viên lại là một lũ bịp bợm. Chỉ nghĩ đến chúng nó là tớ đã nổi da gà. Điều đầu tiên chúng nói với cậu khi cậu gia nhập câu lạc bộ là cậu phải đọc Mác. "Nhớ đọc trang này với trang này cho lần họp mặt sau nhé". Có đứa lên lớp hẳn một bài về chuyện dân ca phải gắn liền với xã hội và phong trào cấp tiến như thế nào. Được rồi, tớ nghĩ bụng, đọc thì đọc sợ chó gì, và hăng hái về nhà làm liền, nhưng chẳng hiểu một tí gì cả. Còn tệ hơn cả giả định thức nữa. Được ba trang thì tớ đầu hàng. Như một hướng đạo sinh "thật thà", tớ đến cuộc họp tuần sau đó và nói tớ đã đọc nhưng không thể hiểu được. Từ đó trở đi chúng nó coi tớ như một con ngốc. Chúng bảo tớ không có ý thức phê phán về đấu tranh giai cấp, rằng tớ là một kẻ tàn tật về mặt xã hội. Nghĩa là nghiêm trọng thật chứ chẳng chơi. Mà tất cả chỉ vì tớ nói tớ không hiểu được một cuốn sách. Cậu thấy chúng có kinh khủng không?"
"Ờ," tôi nói.
"Và những cái gọi là thảo luận của chúng cũng kinh khủng luôn. Ai cũng đao to búa lớn và giả vờ như thông thạo tình hình lắm. Nhưng tớ thì hễ không hiểu cái gì là tớ hỏi luôn. "Tình trạng bóc lột đế quốc mà các cậu đang nói đến ấy là cái gì vậy" Nó có dính dáng gì đến Công ty Đông Ấn không?" "Có phải tiêu diệt tập đoàn công nghiệp-giáo dục có nghĩa là chúng ta sẽ không được làm việc cho một công ty sau khi tốt nghiệp không?" Đại loại những chuyện như thế. Nhưng không đứa nào muốn giai thích gì cho tớ cả. Tệ hơn nữa, chúng lại còn nổi giận nữa chứ. Cậu có tin được không?"
"Có tớ tin được," tôi nói.
"Một thằng quát vào mặt tớ, "Đồ chó cái ngu xuẩn, làm sao mày sống được với một bộ óc rỗng tuếch như thế?" Mẹ kiếp, thế là xong. Tớ không chịu nổi nữa. Ôkê, cứ cho là tớ không thông minh đi. Tớ thuộc giai cấp lao động. Nhưng chính giai cấp lao động làm cho thế giới này tiến lên, và chính giai cấp lao động là người bị bóc lột. Cách mạng kiểu gì mà chỉ biết đao to búa lớn những lời lẽ mà người lao động không thể hiểu được thế? Thứ cách mạng xã hội chó gì vậy? Nghĩa là, tớ cũng thích làm cho thế giới này tốt đẹp hơn chứ. Nếu có ai đó thực sự bị bóc lột, mình sẽ ra tay chấm dứt chuyện đó chứ. Tớ tin chuyện ấy, và vì thế mà tớ mới thắc mắc. Tớ đúng hay sai nào?"
"Cậu đúng."
"Chính thế mà tớ vỡ nhẽ ngay. Lũ khốn kia là rởm hết. Chúng chỉ nhăm nhăm phách lối với tụi con gái mới gặp bằng những từ hoa mỹ trong khi thò tay tốc váy bọn này mà thôi. Và khi tốt nghiệp, chúng sẽ cắt tóc ngắn và xếp hàng đi làm cho Mitsubishi hoặc IBM hoặc Ngân hàng Fuji. Chúng sẽ cưới những cô vợ xinh xắn không bao giờ đọc Mác và đẻ ra những đứa con với những cái tên hoa mỹ nghe phát lộn mửa. Tiêu diệt tập đoàn công nghiệp-giáo dục như vậy ư? Đừng có làm trò cười với tôi! Mà bọn thành viên mới cũng tệ chẳng kém. Chúng cũng chẳng hiểu cái mẹ gì, nhưng cứ giả vờ thế và cười vào mặt tớ. Sau buổi họp, chúng bảo "Đừng có ngốc thế! Cậu không hiểu thì đã làm sao?" Cứ việc đồng ý với mọi người là xong". Mà này, Watanabe, tớ còn có chuyện muốn phát điên hơn thế nữa. Muốn nghe không?"
"Có chứ, sao lại không."
"Ôkê, một lần chúng triệu tập một cuộc họp chính trị vào tối khuya, và bảo mỗi đứa con gái phải làm hai mươi cái bánh bột gạo để ăn đêm hôm đó. Mẹ kiếp, còn nói phân biệt nam nữ chó gì nữa? Nhưng tớ quyết định cứ im mồm một lần ấy xem sao, và đến họp như một con ngoan ngoãn với đủ hai mươi cái bánh, đầy đủ cả nhân trong lẫn ruốc ngoài. Và cậu biết tớ được gì không?" Sau đó chúng nó chê là nhân bánh của tớ không đủ vị, và tớ không mang thêm cái gì để ăn kèm với bánh cả! Bọn con gái khác thì nhồi vào bánh của chúng cả cá hồi với cá tuyết, và chúng đem theo cả những miếng trứng rán dày cộp. Tớ nổi giận đến mức không nói được! Bọn cách mạng cuồng này tưởng chúng là ai mà dám chê bai như vậy chứ? Nhẽ ra chúng phải biết ơn vì đã có bánh mà ăn. Cứ nghĩ đến bọn trẻ con đang chết đói ở Ấn Độ mà xem!"
Tôi phì cười. "Rồi cái câu lạc bộ ấy của cậu ra làm sao?"
"Tháng Sáu thì tớ bỏ, tớ tức quá," Midori nói. "Hầu hết những loại sinh viên ấy đều hoàn toàn rởm hết. Chúng sợ nhất là có ai phát hiện chúng chẳng biết cái mẹ gì cả. Tất cả bọn chúng đều chỉ đọc một loại sách và nỏ mồm một loại khẩu hiệu, và chúng thích nghe nhạc John Coltrane với xem phim Pasolini. Cậu gọi thế là "cách mạng" ư?"
"Ê đừng hỏi tớ, tớ chưa thấy một cuộc cách mạng nào bao giờ."
"Mẹ khỉ, nếu đó là cách mạng thì vứt mẹ nó đi. Chúng có thể sẽ bắn tớ vì đã làm nhân bánh không đủ vị. Chúng cũng có thể bắn cậu vì hiểu được giả định thức."
"Có thể lắm."
"Tin tớ đi, tớ biết tớ đang nói gì. Tớ là giai cấp lao động. Kiểu gì thì giai cấp lao động vẫn cứ sống cơ hàn trong những hố cứt cú mà thôi. Mà cách mạng là cái gì chứ? Chắc chắn là nó không phải chỉ thay cái tên của toà thị chính đâu. Nhưng bọn khốn kia không hiểu chuyện đó bọn khốn to mồm ấy! Nói tớ nghe, Watanabe, đã bao giờ cậu thấy một thằng phòng thuế chưa?"
"Chưa bao giờ."
"Còn tớ thì rồi. Biết bao nhiêu lần rồi. Chúng xông thẳng vào nhà và phách lối om sòm. "Cuốn sổ cái này là gì đây?" "Tôi muốn xem tất cả hoá đơn của ông ngay bây giờ". Trong khi đó thì gia đình tớ chúi ở một xó, và đến bữa tối thì phải đãi chúng sushi hảo hạng - mang đến tận nhà. Nhưng tớ cũng phải nói với cậu rằng bố tớ không bao giờ gian lận thuế. Ông ấy là vậy đấy, một người cổ lỗ ngay thẳng như một mũi tên. Nhưng đừng có hòng nói điều đó với bọn phòng thuế. Chúng chỉ có một việc là đào bới, đào bới, đào bới. "Thu nhập chỗ này hơi thấp đấy, có phải không?" Mẹ kiếp, không kiếm ra tiền thì thu nhập phải thấp thế chứ làm sao! Tớ những muốn gào lên: "Đi chỗ khác mà kiếm chác đi!" Cậu nghĩ nếu có cách mạng rồi thì thái độ bọn phòng thuế có khác đi không?"
"Tớ nghi lắm, rất nghi."
"Thế là xong. Tớ sẽ không tin bất kì một thứ cách mạng khốn kiếp nào nữa. Tớ sẽ chỉ tin tưởng vào tình yêu thôi."

g.
“‎Me lleva tiempo evocar su rostro. Y conforme vayan pasando los años, más tiempo me llevará. Es triste, pero cierto. Al principio era capaz de recordarla en cinco segundos, luego éstos se convirtieron en diez, en treinta segundos, en un minuto. El tiempo fue alargándose paulatinamente, igual que las sombras en el crepúsculo. Puede que pronto su rostro desaparezca absorbido por las tinieblas de la noche. Sí, es cierto. Mi memoria se está distanciando del lugar donde se hallaba Naoko. De la misma forma que se está distanciando del lugar donde estaba mi yo de entonces”
-----
“Dù sao, nhớ lại gương mặt Naoko là một việc mất thời gian. Và khi năm tháng cứ qua đi, quãng thời gian ấy cứ kéo dài mãi ra. Sự thật đáng buồn là cái mà tôi có thể nhớ lại được trong năm giây chẳng mấy chốc đã phải mất mười, rồi ba mươi giây, rồi trọn cả một phút - giống như bóng đổ cứ dài mãi ra cùng hoàng hôn vậy. Sẽ đến ngày, tôi nghĩ vậy, những bóng đổ ấy sẽ bị màn đêm nuốt chửng hết. Không có cách gì khác: kí ức tôi đang ngày càng xa cách cái điểm mà Naoko thường đứng - nơi cái bản ngã xưa cũ của tôi cũng thường ở đó.”


3) PHÍA NAM BIÊN GIỚI, PHÍA TÂY MẶT TRỜI/ AL SUR DE LA FRONTERA, AL OESTE DEL SOL

Bìa sách Al sur de la Frontera, al oeste del sol (NXB Tusquets) và Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời (NXB Hội Nhà Văn)


a.
"Hay muchas maneras de vivir. Hay muchas maneras de morir. Pero eso no tiene ninguna importancia. Al final sólo queda el desierto"
-----
“Có nhiều cách sống, và nhiều cách chết. Nhưng có quan trọng gì đâu. Điều duy nhất còn lại là sa mạc.”

b.
“«Todo se va deprisa», pensé. Algunas cosas desaparecen de repente como si las hubieran cortado. Otras se van difuminando despacio antes de borrarse definitivamente. Y lo único que queda es el desierto.”
-----
“Phải, tất cả đều sẽ chết, tôi tự nhủ. Một số thứ biến đi mất giống như bị chém một nhát thật ngọt, những thứ khác dần lẫn lộn vào nhau và biến đi mất theo thời gian. Và chỉ còn lại sa mạc.”

c.
“Sacudí la cabeza, exhalé un hondo suspiro. Algo me estaba sucediendo. Las fuerzas me abandonaron, como si tuviera vértigo. Me apoyé en un semáforo y me quedé con la vista clavada en los pies. El semáforo pasó de verde a rojo, de rojo a verde. La gente cruzaba la calle, esperaba ante la luz roja, cruzaba. Yo permanecía apoyado en el semáforo, intentando acompasar la respiración.
Al abrir los ojos, vi de repente el rostro de Izumi. Estaba en el interior de un taxi detenido frente a mí. Me miraba fijamente por la ventanilla del asiento posterior. El taxi estaba parado ante el semáforo en rojo, apenas nos separaba un metro de distancia. Ya no era aquella niña de diecisiete años. Pero la reconocí a primera vista. No podía tratarse de nadie más. Aquélla era la mujer que, veinte años atrás, yo había tenido entre mis brazos. La primera mujer a la que había besado. La mujer que, una tarde de otoño, cuando tenía diecisiete años, había desnudado. Ella había perdido una liga. Por más que aquellos veinte años la hubiesen cambiado, su rostro era inconfundible.
«Los niños le tienen miedo», me había dicho alguien. Al oírlo, no lo había entendido. No había calibrado el alcance de aquellas palabras. Ahora, ante ella, comprendía a la perfección lo que me habían querido decir: su rostro carecía de toda expresión. No, no me he expresado con las palabras exactas. Tal vez debería usar otras. Su rostro había sido despojado por completo de cualquier cosa susceptible de ser llamada expresión. Me recordó una habitación de la que se hubieran llevado todos los muebles, sin dejar ni uno. En aquella cara no afloraba la menor emoción; en ella, tal como sucede en las profundidades marinas, todo se extinguía, sin un sonido, en la muerte. Ella me observaba con ese rostro carente de expresión. Debía de estar observándome. O, por lo menos, mantenía fija la mirada a mi dirección. Pero en su rostro no se leía, hacia mí, el menor signo de reconocimiento. Si algo podía leerse, era sólo un vacío infinito.
Atónito, petrificado, fui incapaz de articular palabra. Me limité a respirar despacio, sosteniéndome a duras penas en pie. Había perdido, de verdad, literalmente, el sentido mismo de mi propia existencia. Durante algunos instantes, dejé de saber incluso quién era yo. Llegué a percibir cómo se desdibujaba mi perfil como ser humano y me convertía en una masa densa y como de lodo.
Continué acariciando despacio, a través del cristal, el rostro sin expresión de Izumi. Sin embargo, Izumi no movió ni un músculo. Ni siquiera parpadeó. “¿Estará muerta?” pensé. “No, no puede estar muerta.” Ella vivía sin parpadear. Vivía en un mundo en donde no había sonido alguno, detrás del cristal de la ventanilla. Y sus labios inmóviles hablaban de un vacío infinito.”
-----
“Tôi lắc đầu, trút ra một hơi thở thật dài. Nhất định là tôi không được bình thường cho lắm. Tôi đã bị choáng, toàn bộ sức lực rời bỏ tôi. Tôi dựa vào cột đèn đường, nhìn chân mình một lúc. Đèn chuyển từ đỏ sang xanh, rổi lại sang đỏ. Khách bộ hành đi qua, chờ đợi, rồi lại đi qua. Trong lúc đó, tôi đứng dựa lưng vào cái cột, cố gắng lấy lại hơi thở.
Khi cuối cùng ngẩng được đầu lên, tôi nhìn thấy Izumi đang ở trước mặt. Ngồi ở băng ghế sau một chiếc taxi dừng lại đèn đỏ, ngay trước mặt tôi, cô nhìn tôi chăm chăm qua cửa kính. Mặt cô chỉ cách mặt tôi một mét. Dĩ nhiên là cô không còn ở tuổi mười bảy nữa. Nhưng tôi nhận ra cô ngay. Không thể là người nào khác được. Ở đó, ngay trước mắt tôi, là người phụ nữ tôi từng ôm trong vòng tay hai mươi năm trước, người con gái đầu tiên mà tôi hôn, người trong một buổi chiều mùa thu đẹp trời, năm mười bảy tuổi, đã để tôi cởi bỏ quần áo, thậm chí còn làm mất một cái nịt tất. Hai mươi năm làm thay đổi một con người, cái đó thì chắc rồi, nhưng tôi nhận ra được khuôn mặt này giữa cả nghìn người.
“Cô ấy làm bọn trẻ con sợ”, người bạn học cũ từng nói với tôi. Ngay lúc đó, tôi còn chưa hiểu anh định nói gì. Tôi không thể tiêu hóa nổi những gì anh định giải thích với tôi. Giờ đây thì tôi hoàn toàn hiểu. Khuôn mặt Izumi không có chút biểu cảm nào. Hoặc đúng hơn tôi phải nói rằng: Mọi hình thức biểu cảm đã trốn chạy khỏi khuôn mặt cô. Giống như là một căn phòng không đồ đạc. Trên khuôn mặt đó, tất cả đều chết và lặng tờ như đáy đại dương. Và cô nhìn tôi chắm chú, với cái vẻ hoàn toàn vô cảm đó. Ít nhất thì tôi cũng nghĩ rằng cô nhìn tôi. Đôi mắt cô quay về phía tôi; nhưng chúng không hiểu gì hết, không truyền đạt một thông điệp nào. Nếu cô định chuyển cho tôi một điều gì đó, thì hẳn đó chỉ có thể là một sự trống rỗng không đáy.
Tôi đứng lặng tại đó. Tôi đã quên mất cách sử dụng lời nói. Tôi thở thật chậm, phải cố gắng lắm tôi mới đứng vững được. Lúc đó, tôi đã mất ý thức theo nghĩa đen về sự tồn tại của chính mình. Trong một lúc, thậm chí tôi còn không biết mình là ai. Những đường nét con người tôi bị xóa đi, tôi cảm thấy mình trở thành một thức chất lỏng chảy nhỏ giọt. Một cách máy móc, không có thời gian để suy nghĩ đến một ý định cụ thể, tôi chìa tay về phía Izumi, chạm vào cửa kính xe, và lấy đầu ngón tay vuốt ve. Tôi không biết cử chỉ đó có nghĩa gì. Vài người bộ hành dừng lại nhìn tôi vẻ bối rối. Nhưng tôi phải làm cử chỉ đó.
Dọc theo cửa kính, tôi tiếp tục vuốt ve khuôn mặt không có mặt của Izumi. Cô không có cử động nào, thậm chí không chớp mắt. Cô đã chết rồi? Không, không thể. Cô vẫn đang sống, không một cử chỉ, mi mắt bất động. Cô vẫn sống, trong cái thế giới này, đằng sau cửa kính xe. Và đôi môi câm lặng của cô nói với tôi về một sự trống rỗng không đáy.”

d.
“A veces, hay personas que pueden herir a los demás por el mero hecho de existir.”
-----
“Chỉ thỉnh thoảng tôi mới biết rằng một con người có thể làm tổn thương một con người khác, duy nhất bởi vì anh ta tồn tại và là chính anh ta.”

e.
“Sin embargo, cuando me sentaba a su lado y le rozaba los dedos, una calidez natural me colmaba el corazón. A ella podía decirle con relativa facilidad cosas que no podía decirle a nadie más. Me gustaba besarle los párpados y los labios. También me gustaba levantarle el pelo y besar sus pequeñas orejas. Cuando lo hacía, ella soltaba una risita sofocada. Incluso hoy, al recordarla, imagino una plácida mañana de domingo. Un domingo tranquilo, despejado, recién estrenado. Un domingo sin deberes, libre para satisfacer cualquier capricho. A menudo, ella me hacía sentir como esas mañanas de domingo.”
----
“Nhưng khi cô ngồi bên tôi, khi những ngón tay cô chạm vào những ngón tay tôi, một cảm giác nồng ấm xâm chiếm lấy tôi một cách tự nhiên. Với cô, tôi có thể nói tất cả những gì mình đang nghĩ. Tôi thích hôn lên mắt cô, miệng cô. Tôi thích vén tóc cô để đặt môi lên đôi tai nhỏ của cô. Điều đó làm cô phá lên cười. Cho đến giờ, nghĩ đến cô là tôi lại nhớ đến những buổi sáng Chủ nhật êm đềm. Những Chủ nhật bình thản, đầy nắng, mới chỉ bắt đầu. Những Chủ nhật không bài tập, khi chúng tôi được tự do làm gì mình thích. Chỉ sự có mặt của cô đã đủ để nhấn tôi vào phong vị dịu dàng của ngày Chủ nhật.”

f.
“Cuando te miro, tengo la sensación de estar viendo una estrella lejana —dije—. Es muy brillante. Pero la luz que veo fue emitida hace decenas de años. Y ahora la estrella tal vez ya no exista. No obstante, a veces esa luz me parece más real que cualquier otra cosa en el mundo.”
-----
“Khi anh nhìn em, đôi khi anh có cảm giác đang ngắm nhìn một ngôi sao rất xa, tôi nói thêm. Một ngôi sao rất sáng, nhưng ánh sáng thực ra đến từ cách đây hàng nghìn năm ánh sáng. Có thể là anh đang ngắm nhìn một thiên thể đã không còn tồn tại vào lúc này nữa, nhưng trong mắt anh nó thực hơn bất kỳ điều gì khác.”

g.
“Y empecé a salir con una chica.
No era demasiado guapa. Para entendernos, no se trataba del tipo de chica de la que, cuando tu madre ve el álbum de la escuela, dice con un suspiro “¡Qué chica tan mona! ¿Cómo se llama?”. Pero a mí me gustó desde la primera vez que la vi. En las fotografías no se apreciaba, pero poseía una dulzura natural que atraía a los demás de manera automática. Cierto que no era una belleza de la que yo pudiera alardear ante los otros. Pero, pensándolo bien, tampoco yo tenía nada que mostrar con orgullo.”
-----
“Và rồi, tôi có một cô bạn gái.
Cô không đặc biệt xinh. Không phải loại con gái mà mẹ tôi sẽ chỉ trên bức ảnh chụp chung cả lớp và thở dài nói: “Con bé này tên là gì? Nó đẹp quá!” Dù vậy, ngay từ cái nhìn đầu tiên, tôi đã thấy cô rất hấp dẫn. Những chuyện kiểu đó không thể xuất hiện trên một tấm ảnh nhưng, bằng xương bằng thịt, ở cô toát ra một sự nồng ấm bột phát thu hút người khác. Đó không phải là một vẻ đẹp làm người ta nghẹt thở; nhưng, khi nghĩ kỹ, bản thân tôi cũng đâu có phẩm chất nổi trội nào để có thể tự tán dương.”

h.
“Se llamaba Izumi. “¡Qué nombre tan bonito!”, le dije la primera vez que hablamos, “oyéndolo es como si, al lanzar un hacha, fuera a aparecer un hada”. Se rió.”
-----
“Cô tên là Izumi, nghĩa là “dòng suối”. “Tên hay quá, tôi nói với cô ngay lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau. Làm tớ nhớ đến một truyện cổ tích, thế này này: một người tiều phu ném rìu xuống suối, và từ đó hiện lên một nàng tiên.” Câu nói làm cô cười.”

i.
“Dentro de esa oscuridad, pensé en la lluvia que caía sobre el mar. La lluvia que caía furtivamente, sin que nadie lo supiera, en un vasto mar. Las gotas de lluvia golpeaban mudas la superficie del agua, sin que ni siquiera los peces lo percibieran. Hasta que alguien se acercó y posó suavemente sus manos sobre mi espalda, seguí pensando en el mar.”
-----
“Ở tận sâu bóng tối đó, tôi nghĩ đến mặt biển dưới cơn mưa. Trời mưa không tiếng động trên đại dương rộng lớn, mà không ai biết cả.Những giọt nước đập lên mặt nước im lặng, và ngay cả những con cá cũng không có chút ý thức nào về điều đó.Tôi cứ nghĩ đến biển thật lâu, thật lâu, cho đến khi ai đó đi đến sau lưng tôi và nhẹ nhàng đặt tay lên vai tôi.”

j.
“Ambos éramos seres incompletos, sentíamos que algo nuevo y todavía por aprender aparecía delante de nosotros para llenar nuestro vacío. Estábamos de pie ante una puerta cerrada, desconocida. Bajo una luz mortecina, los dos juntos, con las manos estrechamente unidas durante diez segundos.”
-----
“Có thể là cả hai chúng tôi, khi đó vẫn còn là những sinh vật đang trong quá trình ghép thành hình, mới chỉ bắt đầu cảm thấy những tiền đề của một thực tế mới mẻ sẽ làm tràn đầy con người chúng tôi và biến chúng tôi trở thành những con người toàn vẹn. Chúng tôi đang đứng trước một cánh cửa dẫn đến cuộc phiêu lưu mới mẻ đó. Chỉ có hai chúng tôi, trong một làn ánh sáng mơ hồ, tay trong tay, nhưng chỉ trong mười giây ngắn ngủi."



                                                                                                                   (Còn tiếp)

No comments:

Post a Comment